Việt Kim Triều

Việt Kim Triều

Theo một số nhà khoa học chính trị[ai?], Chiến tranh Triều Tiên là kết quả trực tiếp của chính sách toàn cầu của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã ủng hộ những người theo chủ nghĩa chống cộng, hậu thuẫn quân đội Đại Hàn Dân Quốc, và ảnh hưởng Liên Hợp Quốc để ủng hộ quân đội này. Trong năm 1945, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Hợp Quốc dự định tạo ra một chính quyền ủy nhiệm, Hoa Kỳ điều khiển bán đảo này phía nam vĩ tuyến 38 và Liên Xô điều khiển phía bắc. Tình thế chính trị của Chiến tranh Lạnh đã dẫn đến sự hình thành của hai chính phủ.

Kim Ngọc Bảo Tỷ Của Hoàng Đế Và Vương Hậu Triều Nguyễn Việt Nam

Bảo tàng lịch sử Việt Nam xuất bản, 2009 - 231 Seiten

VTV.vn - Ngày 18/7, Chủ tịch Triều Tiên Kim Jong-un đã chủ trì cuộc họp của Quân ủy Trung ương đảng Lao động Triều Tiên.

VTV.vn - Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un hôm qua đã bất ngờ chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị của Đảng Lao động Triều Tiên.

VTV.vn - Trước đó, đã có nhiều đồn đoán xoay quanh tình hình sức khỏe của nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un khi ông hủy bỏ chuyến thăm thường niên đến Cung điện Mặt Trời.

Việt Nam hôm nay28/04/2020 06:00 PM

VTV.vn - Theo nhận định từ phía Hàn Quốc, nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un đã bỏ lỡ lễ kỷ niệm ngày sinh cố Chủ tịch Kim Nhật Thành do lo ngại virus Corona.

VTV.vn - Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un đã chọn công trường xây dựng nhà máy sản xuất phân bón ở TP Sunchon làm địa điểm thị sát cho hoạt động đầu tiên trong năm mới của ông.

Chào buổi sáng30/08/2019 10:38 AM

VTV.vn - Ngày 29/8, Quốc hội Triều Tiên tuyên bố đã sửa đổi hiến pháp nhằm tăng quyền lực pháp lý cho nhà lãnh đạo Kim Jong-un.

VTV.vn - KCNA hôm nay cho biết các loại vũ khí mà nước này vừa tiến hành thử nghiệm hôm 4/5 gồm các hệ thống pháo phản lực phóng loạt tầm xa và vũ khí dẫn đường chiến thuật.

VTV.vn - Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un bày tỏ sẵn sàng tiến hành cuộc gặp thượng đỉnh lần thứ 3 với Tổng thống Mỹ Donald Trump.

Triều Tiên (theo cách sử dụng tại Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên: Chosŏn'gŭl: 조선, Hanja: 朝鮮, McCune–Reischauer: Chosǒn), Hàn Quốc (theo cách sử dụng tại Đại Hàn Dân Quốc: Tiếng Hàn: 한국; Hanja: 韓國; Romaja: Hanguk), liên Triều (cách gọi mà một số phương tiện truyền thông tại Việt Nam sử dụng)[3][4] hay Korea (theo cách sử dụng quốc tế bắt nguồn từ tên gọi Cao Ly) là một nền văn hóa và khu vực địa lý nằm trên bán đảo Triều Tiên thuộc khu vực Đông Á, giáp với Trung Quốc về phía tây bắc, Nga về hướng đông bắc và Nhật Bản ở phía đông nam qua eo biển Triều Tiên.

Hiện nay, Triều Tiên được chia ra thành hai chính thể: Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên ở phía bắc là một quốc gia đơn đảng sử dụng thuyết Chủ thể làm nền tảng và Đại Hàn Dân Quốc ở phía nam là một nhà nước đa đảng theo thể chế Cộng hoà Tổng thống.

Là một trong những nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới, Triều Tiên có lịch sử được ghi chép sớm nhất vào khoảng hơn 3000 năm. Trong thế kỷ thứ IV, họ đã bắt đầu sử dụng hệ thống chữ Hán và chịu ảnh hưởng của Phật Giáo, về sau, Nho Giáo của Khổng Tử và nhiều khía cạnh văn hóa khác du nhập từ Trung Hoa dần có ảnh hưởng sâu sắc đến xã hội này.

Sau khi thống nhất Tam Quốc vào năm 676, Triều Tiên giữ được độc lập về lãnh thổ, chính trị cũng như văn hóa cho đến khi bị Đế quốc Mông Cổ xâm lược trong thế kỷ XIII. Trong nhiều thế kỷ kế tiếp, Triều Tiên duy trì một liên minh gần gũi, thân cận với các triều đại phong kiến Trung Quốc, trong khi cũng đồng thời giữ gìn bản sắc của riêng mình.

Nền văn hóa Triều Tiên đã đem lại máy in, đồng hồ tự gõ đầu tiên, máy đo lượng nước mưa và tàu chiến bọc sắt. Văn hóa Triều Tiên đạt đến đỉnh cao trong thế kỷ XV, dưới thời Triều Tiên Thế Tông. Sau đó, đất nước rơi vào trì trệ, suy thoái vào giai đoạn sau của nhà Triều Tiên và đến cuối thế kỷ XIX thì bắt đầu bị các đế quốc thực dân phương Tây dòm ngó.

Năm 1910, Triều Tiên bị Đế quốc Nhật Bản sáp nhập và trở thành thuộc địa của người Nhật cho đến giai đoạn cuối của Chiến tranh thế giới thứ hai. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, bán đảo được quân đội Đồng Minh giải phóng, tuy nhiên, các lực lượng quân sự của Liên Xô và Hoa Kỳ đã không thể tìm kiếm thành công một phương án đồng ủy trị cho nơi đây. Cuối cùng, hai quốc gia lần lượt lập nên những chính phủ trung thành với ý thức hệ của họ, dẫn đến hệ quả là Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) và sự chia cắt vĩnh viễn của bán đảo này. Hiện nay, hai miền đang nỗ lực đàm phán và đối thoại nhằm tiến tới hòa bình lâu dài cũng như tái thống nhất.

Tên gọi "Korea" xuất phát từ thời kỳ Cao Ly trong lịch sử Triều Tiên và cũng xuất phát từ nhà nước Cao Câu Ly. Ngày nay, tên gọi "Korea" được quốc tế sử dụng để chỉ đến cả hai nước của Triều Tiên. Tại nước Việt Nam, khu vực này được gọi chính thức với danh xưng là "bán đảo Triều Tiên".

Triều Tiên nằm trên Bán đảo Triều Tiên tại đông bắc châu Á, có biên giới trên bộ với 2 quốc gia (Trung Quốc, Nga) và 3 biển. Ở phía tây bắc, Áp Lục Giang chia Triều Tiên ra khỏi Trung Quốc và về hướng bắc, Đồ Môn Giang tách Triều Tiên từ Nga. Hoàng Hải nằm tại hướng tây, biển Hoa Đông ở phía nam, và Biển Nhật Bản ở hướng đông. Tổng diện tích của Triều tiên là 219,155 km². Các đảo đáng kể gồm có Jeju, Ulleungdo.

Phần phía nam và phía tây của vùng đất lục địa Triều Tiên là những đồng bằng phát triển, trong khi phần phía tây và phía bắc có nhiều đồi núi. Núi cao nhất Triều Tiên là núi Bạch Đầu (Baekdu) (2744 m, Trung Quốc gọi là "núi Trường Bạch"). Biên giới với Trung Quốc chạy qua dãy núi này. Phần kéo dài về phía nam của núi Bạch Đầu là một cao nguyên gọi là cao nguyên Kaema. Cao nguyên này chủ yếu được nâng lên vào thời Đại Tân Sinh và một phần bị bao phủ bởi tro núi lửa. Về phía nam của Gaema Gowon, nhiều dãy núi kế tiếp toạ lạc dọc theo bờ biển phía đông của bán đảo Triều Tiên. Những dãy núi này được đặt tên là Baekdudaegan (Bạch Đầu đại cán). Một số núi quan trọng bao gồm Sobaeksan (2.184 m), Baeksan (1.724 m), Kim Cương sơn (1.638 m), Seoraksan (1.708 m), Taebaeksan (1.567 m) và Jirisan (1.915 m). Có một số núi thấp hơn, những dãy núi thứ hai có hướng gần như vuông góc với hướng núi Baekdudaegan. Chúng phát triển dọc theo đường nối lục địa thời Đại Trung Sinh và hướng của chúng là tây bắc và tây tây bắc.

Tương phản với những dãy núi cổ trên lục địa, một số đảo quan trọng của Triều Tiên được hình thành bởi các hoạt động núi lửa trong thời Đại Tân Sinh gần đây. Đảo Jeju, tọa lạc xa về phía nam của bán đảo Triều Tiên, là một đảo núi lửa lớn với núi chính là Hallasan (1950 m). Ulleungdo là đảo núi lửa trên Biển Nhật Bản, mà thành phần có nhiều felsic hơn Jeju. Những đảo núi lửa có xu hướng trẻ hơn đối với các núi di chuyển về phía tây.

Bởi vì những vùng núi có hướng ngả về phần đông của bán đảo, những con sông lớn có xu hướng chảy về phía tây. Hai trường hợp ngoại lệ là sông Nakdong và sông Seomjin chảy về phía nam. Các con sông quan trọng chảy về phía tây bao gồm sông Áp Lục, sông Chongchon, sông Đại Đồng, sông Hán, sông Geum và sông Yeongsan. Những con sông này làm ngập các đồng bằng và cung cấp một môi trường lý tưởng cho việc trồng lúa.

Phía nam và tây nam bờ biển của bán đảo Triều Tiên là đường bờ biển Lias khá phát triển. Nó được biết đến như là Dadohae trong tiếng Triều Tiên. Đường bờ biển phức tạp tạo ra những biển ôn hòa và môi trường biển tĩnh lặng cho phép tàu thuyền đi lại an toàn, đánh cá và trồng rong biển. Thêm vào đường bờ biển phức tạp, bờ phía tây của bán đảo Triều Tiên có cường độ thủy triều rất cao (tại Incheon, khoảng giữa bờ biển phía tây, nó cao đến 9 m). Những tấm chắn thủy triều lớn đang được phát triển trên bờ biển phía nam và tây của bán đảo Triều Tiên.

Đã có bằng chứng khảo cổ cho thấy loài người đã sống trên bán đảo Triều Tiên khoảng 700.000 năm trước, trong thời kỳ Hạ Đồ đá cũ. Đồ gốm Triều Tiên cổ xưa nhất có từ khoảng năm 7000 TCN, và thời kỳ Đồ đá mới bắt đầu khoảng năm 6000 TCN. Thời kỳ đồ gốm Trất Văn kéo dài từ 3500 TCN đến 2000 TCN.

Theo sự tích Đàn Quân, Triều Tiên được thành lập năm 2333 TCN. Quốc gia này được biết đến với tên Triều Tiên, thường được gọi là Cổ Triều Tiên để phân biệt với nhà Triều Tiên. Các nhà khảo cổ đã khai quật được các đồ tạo tác của Cổ Triều Tiên và các thành cổ khắp Triều Tiên và miền nam Mãn Châu.

Các tài liệu khảo cổ và sử sách cho biết nó có thể được thành lập từ một liên minh của các thành thành một nhà nước tập trung vào giữa thế kỷ VII và IV TCN, khi nó tự xưng là một vương triều và tuyên chiến với nhà Chu. Năm 108 TCN, nhà Hán tại Trung Quốc đã đánh bại Cổ Triều Tiên và lập ra 4 quận tại miền bắc Triều Tiên (kể cả một quận gần Bình Nhưỡng) và Mãn Châu chủ yếu để làm tiền đồn buôn bán. Đến 75 TCN, ba trong bốn quận đã bị thất thủ, nhưng còn một quận nằm dưới sự cai trị của nhà Hán cho tới năm 313.

Một quốc gia với tên gọi Thìn Quốc tồn tại ở miền nam Triều Tiên trước khi Cổ Triều Tiên bị sụp đổ. Tuy rất ít được biết về tổ chức chính trị của quốc gia này, các tạo tác bằng đồng thiếc từ thế kỷ III và II trước Công Nguyên đã được khai quật trong khu vực. Tam Hàn, ba liên minh có nguồn gốc từ Thìn, thay nước Thìn. Tại miền bắc, quốc gia Cao Câu Ly đã thống nhất Phù Dư, Ốc Trở và Đông Uế trong lãnh thổ Cổ Triều Tiên trước kia, và tiêu diệt quận của người Hán vào năm 313.

Ba nước Cao Câu Ly, Tân La và Bách Tế (hai nước sau phát sinh từ Tam Hàn) giành quyền với nhau và thâu tính các quốc gia nhỏ hơn trong khu vực. Tổ chức nhà nước tinh vi được phát triển dưới dạng Khổng giáo và Phật giáo.

Cao Câu Ly là nước mạnh nhất, nhưng luôn giao chiến với nhà Tùy và nhà Đường tại Trung Quốc. Trong thế kỷ thứ VII, Tùy Dạng Đế đã đem 100 vạn quân qua xâm lấn Cao Câu Ly. Tuy nhiên, người Triều Tiên, dưới sự chỉ huy của tướng Eulji Mundeok (Ất Chi Văn Đức) đã đánh bại quân Hán. Việc này đã dẫn đến sự sụp đổ của nhà Tùy. Nhà Đường cũng tiếp tục giao chiến với Cao Câu Ly.

Tuy là nước lạc hậu nhất trong lĩnh vực văn hóa trong Tam Quốc, Tân La có một truyền thống quân sự xung quanh các chiến sĩ được gọi là hoa lang (hwarang). Thoạt tiên Tân La sáp nhập khối Già Da (Gaya), rồi liên minh với nhà Đường để thâu tính Bách Tế và, sau này, Cao Câu Ly. Việc này tạo ra nhà nước thống nhất đầu tiên tại Triều Tiên, thường được gọi là Tân La Thống nhất.

Tân La cuối cùng đuổi được quân nhà Đường ra khỏi lãnh thổ Cao Câu Ly. Vì lẽ đó, đến thế kỷ thứ VIII, Tân La đã quản lý hầu hết bán đảo Triều Tiên và vì thế được gọi là Tân La Thống nhất. Đến cuối thế kỷ thứ IX, Tân La Thống nhất sụp đổ và thời Hậu Tam Quốc bắt đầu.

Sau khi Cao Câu Ly sụp đổ, tướng Đại Tộ Vinh (Dae Joyeong) lãnh đạo quân dân đến khu vực Cát Lâm của Mãn Châu. Vị tướng này thành lập nước Bột Hải như nhà nước tiếp kế Cao Câu Ly và giành lại được khu vực miền bắc bị mất. Cuối cùng, lãnh thổ Bội Hải đã trải dài từ Tùng Hoa Giang và Hắc Long Giang ở miền bắc Mãn Châu đến các tỉnh miền bắc Triều Tiên. Trong thế kỷ thứ X, Bột Hải đã bị người Khiết Đan chiếm đóng.

Vương triều Cao Ly thay thế Tân La Thống nhất. Nhiều vương thân từ nước Bột Hải cũng tham gia vào quốc gia mới này, có lãnh thổ rộng hơn bán đảo Triều Tiên (xem Gian Đảo, nay dưới sự quản lý của Trung Quốc). Trong thời kỳ này, luật pháp đã được soạn ra, một hệ thống quan lại cũng ra mắt vào thời điểm này, và Phật giáo trở thành thịnh hành tại Triều Tiên.

Trong thế kỷ thứ X và XI, Triều Tiên tiếp tục bị người Nữ Chân và Khiết Đan tấn công tại biên giới phía bắc. Xung đột giữa các quan lại văn và võ ngày càng tăng khi các quan võ bị hạ thấp địa vị và được trả tiền ít hơn. Việc này khiến nhiều tướng cầm quân nổi loạn và một số khác di cư tại nơi khác.

Trong năm 1238, quân Mông Cổ xâm chiếm Triều Tiên. Sau gần 30 năm kháng chiến, Triều Tiên tiêu tàn và hai nước ký hiệp ước có lợi cho Mông Cổ. Dưới sự điều khiển của Mông Cổ, Cao Ly tham gia vào hai cuộc xâm chiếm Nhật Bản không thành. Trong thập niên 1340, Đế quốc Mông Cổ bị nhanh chóng suy sụp vì có xung đột nội bộ. Lúc này Triều Tiên có thể cải cách chính trị mà không bị Mông Cổ quấy rối. Vào thời điểm này, tướng Lý Thành Quế (Yi Seong-gye) lập danh cho mình bằng cách đánh đuổi hải tặc Nhật Bản, được gọi là Uy khấu (giặc lùn), đã cướp bóc từ các tàu lái buôn của Trung Quốc và Triều Tiên và tàn phá bờ biển Triều Tiên.